Trước đây, vùng Đông Nam bộ có 6 tỉnh, thành phố gồm: TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước. Khi sáp nhập tỉnh từ ngày 1.7, vùng còn 3 tỉnh, thành phố là TP.HCM, Đồng Nai và Tây Ninh. Tuy số tỉnh ít hơn nhưng phạm vi lại mở rộng hơn do tỉnh Tây Ninh sáp nhập thêm tỉnh Long An.

PGS-TS Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ phát biểu khai mạc hội thảo
ẢNH: SỸ ĐÔNG
PGS-TS Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ cho biết vùng kinh tế Đông Nam bộ từ lâu đã được xem là đầu tàu tăng trưởng, là khu vực năng động bậc nhất của cả nước, đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm nội địa (GDP), xuất khẩu và thu ngân sách quốc gia.
Ông Hưng đánh giá dù đã có nhiều nỗ lực nhưng liên kết giữa các địa phương trong vùng vẫn còn thiếu tính chặt chẽ, chưa khai thác hết tiềm năng về hạ tầng, chuỗi cung ứng, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực và các ngành kinh tế mũi nhọn. Khoảng trống này không chỉ hạn chế sự phát triển của từng địa phương mà còn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh tổng thể của cả vùng Đông Nam bộ.
Liên kết vùng rời rạc, mạnh ai nấy làm
Tại hội thảo, TS Hoàng Văn Tú (Học viện Cán bộ TP.HCM) nêu hạn chế lớn nhất của vùng Đông Nam bộ là khung thể chế liên kết vùng chưa hoàn thiện, thiếu tính ràng buộc pháp lý. Bởi vậy, dù có nhiều nghị quyết, chương trình và kế hoạch hành động nhưng các quy định về liên kết bắt buộc vẫn còn chung chung, thiếu cơ chế vận hành thực thi rõ ràng.
Hiện khung pháp lý vẫn chưa có văn bản ở cấp luật hoặc nghị định chuyên biệt điều chỉnh quyền - nghĩa vụ - trách nhiệm giữa các tỉnh trong vùng. Bộ máy điều phối vùng mới ở dạng hội đồng điều phối, chủ yếu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể, thay vì quyền hạn đủ mạnh để hoạch định và cưỡng chế thực thi. Điều này khiến sự phối hợp liên vùng rời rạc, dễ rơi vào tình trạng mạnh tỉnh nào tỉnh nấy làm, làm phân tán nguồn lực.

TS Hoàng Văn Tú (Học viện Cán bộ TP.HCM) đề nghị xây dựng khung thể chế liên kết vùng mang tính bắt buộc thay vì chỉ tự nguyện
ẢNH: SỸ ĐÔNG
Mặc dù Đông Nam bộ là vùng kinh tế phát triển nhất cả nước, nhưng hạ tầng giao thông chưa đáp ứng, mạng lưới cao tốc mới đạt khoảng 10% quy hoạch, khiến chi phí logistics tăng cao và làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Về ngân sách, hiện nay vẫn phân tán theo đơn vị hành chính cấp tỉnh, khiến nguồn thu tập trung vào các địa phương có điều kiện kinh tế tốt hơn, trong khi các tỉnh khác khó tiếp cận nguồn lực để triển khai dự án mang tính vùng.
Trước bất cập trên, TS Tú đề xuất hoàn thiện thể chế điều phối vùng bằng cách xây dựng khung pháp lý mang tính ràng buộc chứ không chỉ dừng lại ở sự tự nguyện. "Cần xây dựng văn bản pháp lý như nghị định của Chính phủ, thậm chí tiến tới luật vùng, quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, chế tài và cam kết phối hợp của từng tỉnh, thành phố", TS Tú kiến nghị.

Hiện các tỉnh khu vực Đông Nam bộ vẫn chưa có ngân sách dành riêng cho đầu tư hạ tầng liên kết vùng
ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Về ngân sách, chuyên gia cho rằng vùng Đông Nam bộ cần được áp dụng chính sách tài chính đặc thù nhằm tạo nguồn lực ổn định cho các dự án liên tỉnh. Giải pháp trọng tâm là thành lập Quỹ phát triển vùng Đông Nam bộ, hình thành từ ngân sách Trung ương, đóng góp của các địa phương và các nguồn hợp pháp khác, dùng để đầu tư hạ tầng trọng điểm mà một tỉnh riêng lẻ khó thực hiện.
Song song đó, đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng liên kết vùng, hoàn thiện các trục giao thông then chốt như Vành đai 3, 4, các cao tốc kết nối TP.HCM - Đồng Nai - Tây Ninh, nâng cấp cảng Hiệp Phước và hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải, hạ tầng số liên vùng...
Lập ngân sách dùng chung trên nguyên tắc cùng có lợi
Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành (Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM) cho rằng bên cạnh "điều phối cứng" về quy định của nhà nước thì cần có "điều phối mềm" để doanh nghiệp, người dân liên kết với nhau. Khi đó, Trung ương đóng vai trò quan trọng, đưa ra định hướng để các tỉnh làm.

Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành (Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM) đề xuất các tỉnh, thành phố dành ngân sách dùng chung trên nguyên tắc "cùng thắng, cùng có lợi"
ẢNH: SỸ ĐÔNG
Về ngân sách, chuyên gia nhận định hiện các tỉnh, thành phố đều không có khoản ngân sách dành riêng cho liên kết vùng. "Sau khi sáp nhập, TP.HCM có rất nhiều việc phải làm, chỉ riêng loay hoay những việc của 3 địa phương cũ cũng đã hụt hơi rồi", ông Thành nói.
Do vậy, chuyên gia cho rằng từng địa phương cần phải dành ngân sách dùng chung cho liên kết vùng trên nguyên tắc các bên "cùng thắng, cùng có lợi". "Nếu không có lợi thì không ai bỏ ra hết, và nếu không có ngân sách thì không thể làm được gì cả", ông Thành nói thêm.
Xây dựng hình mẫu liên kết vùng của cả nước
PGS-TS Đào Ngọc Tiến, Phó hiệu trưởng Trường đại học Ngoại thương cho biết khu vực Đông Nam bộ và TP.HCM được Chính phủ giao nhiệm vụ quan trọng trong mục tiêu tăng trưởng 2 con số, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do.
"Với nhiều cơ chế thí điểm, kỳ vọng của Trung ương với vùng Đông Nam bộ rất lớn", PGS Tiến nhận định. Và để làm được việc đó, ông cho rằng không chỉ là sáp nhập, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp mà cần có sự gắn kết nội vùng nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế 3 địa phương trong vùng gồm TP.HCM, Đồng Nai và Tây Ninh.
Ông Tiến mong muốn các diễn giả, nhà khoa học trao đổi thẳng thắn, tìm cơ chế gắn kết giữa Trung ương với địa phương, cơ quan nhà nước với doanh nghiệp, nhà khoa học nhằm tìm cơ chế liên kết không chỉ cho vùng Đông Nam bộ mà còn là hình mẫu cho các vùng kinh tế khác.




.jpg)







.jpg)



