Ông Bùi Huy Sơn, Vụ trưởng Vụ trưởng Kế hoạch Tài chính (Bộ Công Thương) cho biết tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Công Thương tháng 3 và 3 tháng đầu năm 2024, chiều 29/3.
Theo ông Bùi Huy Sơn, tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023 sản xuất công nghiệp trong Quý I/2024 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%).
“Từ đó đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. GDP Quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của Quý I các năm 2020-2023”, ông Bùi Huy Sơn nói.
Ông Bùi Huy Sơn đánh giá, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm.
Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Sản xuất công nghiệp tăng trên diện rộng khi chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) Quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương.
Đặc biệt, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao.
IIP của Trà Vinh tăng 102,%, Khánh Hoà tăng 37%, Bắc Giang tăng 23,9%, Thanh Hoá tăng 20%, Hà Nam tăng 17,2%, Quảng Ninh tăng 14%...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực Quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước, như thép thanh, thép góc tăng 29,1%, thép cán tăng 24,1%, phân hỗn hợp NPK tăng 23,1%, vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 21,8%. Xăng dầu tăng 21,7%, phân Urê tăng 14,4%, điện sản xuất tăng 11,4%...
Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước, như khí đốt (khí thiên nhiên) và điện thoại di động cùng giảm 13,3%, ô tô giảm 11,3%, ti vi giảm 11,1%, khí hóa lỏng LPG giảm 11,0%, xe máy giảm 5,2%...
Vẫn theo ông Bùi Huy Sơn, với sự phục hồi của thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng nên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong Quý I/2024 đã có những khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Quý I/2024 ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, xuất khẩu ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 11,6%), nhập khẩu ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 15,4%).
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,2%, tăng gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô (tăng 13,9%).
“Điều này cho thấy những nỗ lực của khu vực kinh tế trong nước trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu”, ông Bùi Huy Sơn bày tỏ.
Có 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%, nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước. Quý I/2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Cũng trong Quý I/2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,06 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 25,5% so với cùng kỳ.
Tiếp theo là Trung Quốc ước đạt 12,68 tỷ USD, tăng 5,2%, thị trường EU ước đạt 12,1 tỷ USD, tăng 16,3%, Hàn Quốc ước đạt 6,6 tỷ USD, tăng 12,9%, Nhật Bản ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 6,4%...
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa Quý I/2024 ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ. Quý I/2024 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 40,3%.
Cán cân thương mại tháng 3/2024 tiếp tục thặng dư khoảng 2,93 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong Quý lên mức 8,08 tỷ USD.
Đánh giá về thị trường trong nước Quý I/2024, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 ước đạt 1.190,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 4,5%).
Một số địa phương có doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, như Quảng Ninh tăng 9,8% Hải Phòng tăng 9,7%, Khánh Hòa và Long An cùng tăng 9,1%, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ cùng tăng 7%, Đà Nẵng tăng 5,9%, TP. HCM tăng 5,8%, Hà Nội tăng 4,7%...
Tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại 3 tháng đầu năm 2024 đạt được những kết quả như vậy là rất khả quan, từ đó đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng chung cho cả nền kinh tế”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nhấn mạnh.
Để đạt được kết quả trên, theo Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân là từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm. Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó là sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023, số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng và những nỗ lực trong việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
“Đặc biệt, việc nâng cấp quan hệ với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã củng cố niềm tin của nhà đầu tư, năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước được cải thiện”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nói.