Phó thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Kế hoạch nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 500 ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn tới năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).
Kế hoạch ưu tiên đầu tư của ngành tới năm 2030, trong đó tổng công suất nhiệt điện khí trong nước 14.930 MW, tổng công suất nhiệt điện LNG là 22.400 MW, tổng công suất nhiệt điện than 30.127 MW.
Tổng công suất nguồn điện đồng phát, nguồn điện sử dụng nhiệt dư, khí lò cao, sản phẩm phụ của dây chuyền công nghệ là 2.700 MW, tổng công suất thủy điện 29.346 MW, tổng công suất thủy điện tích năng 2.400 MW.
Công suất nguồn điện năng lượng tái tạo của các địa phương, vùng và danh mục các dự án nguồn điện tới năm 2030, với tổng công suất điện gió ngoài khơi là 6.000 MW.
Tổng công suất điện gió trên bờ (điện gió trên đất liền và gần bờ) là 21.880 MW, tổng công suất thủy điện là 29.346 MW, tổng công suất điện sinh khối là 1.088 MW.
Tổng công suất điện sản xuất từ rác là 1.182 MW; tổng công suất điện mặt trời mái nhà (tự sản, tự tiêu) tăng thê là 2.600 MW; tổng công suất pin lưu trữ là 300 MW.
Ngoài ra, các loại hình nguồn điện khác tới năm 2030 dự kiến phát triển 300 MW các nguồn điện linh hoạt, ưu tiên phát triển tại các khu vực có khả năng thiếu hụt công suất dự phòng; tận dụng hạ tầng lưới điện sẵn có.
Nhập khẩu điện khoảng 5.000 MW từ Lào, có thể tăng lên 8.000 MW khi có điều kiện thuận lợi với giá điện hợp lý. Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định chủ trương nhập khẩu và phương án lưới điện đấu nối đồng bộ đối với từng dự án cụ thể.
Nguồn điện năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu, sản xuất năng lượng mới sẽ ưu tiên vị trí có tiềm năng xuất khẩu điện ra nước ngoài (miền Trung và miền Nam). Quy mô xuất khẩu từ 5.000 - 10.000 MW khi có các dự án khả thi.
Kế hoạch cũng nêu cụ thể danh mục các dự án lưới điện truyền tải quan trọng, ưu tiên đầu tư, lưới điện liên kết với các nước láng giềng. Đấu nối đồng bộ các dự án nguồn điện nhập khẩu (từ Lào, Trung Quốc...) vào hệ thống điện Việt Nam... Bộ Công Thương xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để thống nhất khi triển khai các dự án cụ thể.
Về kế hoạch phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, nghiên cứu xây dựng 2 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng trong giai đoạn tới năm 2030.
Ở phía bắc có vị trí tại khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình… có thể xem xét mở rộng ra các khu vực lân cận. Quy mô của trung tâm này điện gió ngoài khơi khoảng 2.000 MW, điện gió trên bờ và ven bờ khoảng 500 MW.
Trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng Nam Trung bộ - Nam bộ có quy mô đện gió ngoài khơi khoảng 2.000 - 2.500 MW, điện gió trên bờ và ven bờ khoảng 1.500 - 2.000 MW…
Bình luận về vấn đề này, TS. Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Tăng trưởng xanh cho rằng việc phê duyệt Quy hoạch điện VIII có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Đồng thời, thực hiện các cam kết về biến đối khí hậu của Việt Nam như phát thải ròng bằng không (net zero) hoặc Tuyên bố chính trị về chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP).
Như đã nêu trong Quyết định phê duyệt, Việt Nam sẽ không xây mới các nhà máy nhiệt điện than sau năm 2030 và thực hiện chuyển đổi dần các nhà máy nhiệt điện than sang sử dụng các dạng nhiên liệu sạch như sinh khối, ammonia nhằm đưa đỉnh phát thải khí nhà kính về năm 2030 như đã cam kết.
Đối với các dự án điện khí, Quy hoạch điện VIII ưu tiên triển khai các dự án sử dụng nguồn khí nội địa và chỉ sử dụng khí LNG trong trường hợp thiếu hụt nguồn cung.
Năng lượng tái tạo được đặc biệt ưu tiên phát triển trong bản Quy hoạch điện lần này, với định hướng đạt tỷ trọng khoảng 70% trong cơ cấu nguồn điện vào năm 2050 và thúc đẩy đầu tư điện mặt trời mái nhà với mục đích tự dùng với mục tiêu phủ kín 50% mái các toà nhà công sở và nhà dân.
“Việc phê duyệt Quy hoạch điện VIII sau 2 năm rà soát cũng sẽ tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai các dự án truyền tải điện để giúp giải toả công suất cho các dự án điện tái tạo khu vực miền Trung và miền Nam, cũng như các tuyến đường dây 500 kV giúp cân đối cung cầu giữa 3 miền Bắc - Trung – Nam”, TS. Hà Đăng Sơn nói.
Còn theo TS. Ngô Tuấn Kiệt, Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng, Quy hoạch điện VIII được phê duyệt đảm bảo nguồn điện kịp thời, giảm nguy cơ thiếu điện giai đoạn 2025 – 2030.
Bởi, khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt sẽ giúp các dự án đang xây dựng hiện nay đẩy nhanh tiến độ để đáp ứng để đáp ứng nhu cầu điện cho những năm tới.
“Thực tế cho thấy, có nhiều công trình triển khai xây dựng nhưng chưa có phê duyệt của Quy hoạch điện VIII nên bị chậm tiến độ”, TS. Ngô Tuấn Kiệt bày tỏ.
Vẫn theo TS. Ngô Tuấn Kiệt, Quy hoạch điện VIII là quy hoạch với định hướng mở, đảm bảo an ninh năng lượng, đảm bảo cho phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng đủ cho nhu cầu phụ tải.
“Do đó, thế việc phê duyệt này đem lại định hướng rất chi tiết cụ thể nhưng lại không bị khóa chặt như quy hoạch cũ”, TS. Ngô Tuấn Kiệt nhấn mạnh.