Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Chính phủ ban hành tháng 5 vừa qua đặt mục tiêu, 27 khu bảo tồn biển được thành lập và hoạt động hiệu quả với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 463.587 ha, chiếm khoảng 0,463% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia (các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia).
Quy hoạch xác định 149 khu vực ở vùng biển (59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, 27 khu vực cư trú nhân tạo cho các loài thủy sản) và 119 khu vực nội địa (66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 53 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn) được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống của các loài thủy sản.
Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại, tương đương với các nước có nghề cá phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Đáng lưu ý, định hướng quy hoạch khai thác thủy sản sẽ giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, điều chỉnh tỷ trọng sản lượng khai thác giữa các vùng biển, phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản; khai thác có chọn lọc các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Điều chỉnh số lượng tàu cá khai thác thủy sản, chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực vùng nội địa, vùng biển phù hợp với khả năng cho phép khai thác của nguồn lợi thủy sản, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển. Gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí.
Thực tế, trong những năm qua, với những bước phát triển mạnh mẽ, thủy sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Trong giai đoạn 2010 – 2020, giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng trưởng 4-5%/năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 2,5 lần; kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trung bình khoảng 6,1%/năm.
Năm 2023, tổng sản lượng thủy sản đạt 9,26 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác đạt 3,86 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng đạt 5,4 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,2 tỷ USD, đưa Việt Nam lên vị trí thứ ba trên toàn thế giới, đứng sau Trung Quốc và Na Uy.
“Kết quả này đã đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, cải thiện sinh kế, ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho khoảng hơn 4 triệu người dân, đặc biệt là đối với cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào nguồn lợi thủy sản ở các tỉnh ven biển và trong nội địa. Sự hiện diện của tàu cá và ngư dân trên các vùng biển, đảo góp phần quan trọng trong giữ vững chủ quyền, an ninh biển, đảo của tổ quốc”, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhận định.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, dù đạt những được thành tựu nhưng mục tiêu bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức như vấn đề khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, sự suy giảm nguồn lợi thủy sản cả vùng biển và vùng nội địa do tình trạng khai thác quá mức cho phép.
Đồng thời, cơ cấu nghề khai thác chưa phù hợp, vẫn còn hiện tượng tàu khai thác ở vùng biển ven bờ với ngư cụ gây hủy diệt nguồn lợi thủy sản, khai thác không theo mùa vụ; tổn thất sau thu hoạch khai thác còn cao, trang thiết bị an toàn tàu cá chưa đảm bảo.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đồng bộ; tranh chấp chủ quyền trên vùng biển ảnh hưởng đến khai thác hải sản; trữ lượng thủy sản nguồn lợi thủy sản và hệ sinh thái suy giảm.
Do đó, trả lời về các giải pháp bảo tồn không gian biển và nguồn lợi thủy sản tại phiên chất vấn Quốc hội mới đây, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan khẳng định, để đạt được điều này cần tập trung vào 3 trụ cột chính là: giảm khai thác, tăng cường nuôi trồng và bảo tồn biển.
Vừa rồi, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định về Quy hoạch bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, trong đó có phân ra không gian bảo tồn và phân ra không gian để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả các chiến lược và quyết định này, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các đại biểu Quốc hội quan tâm và hỗ trợ thêm cho Bộ NN&PTNT về nguồn lực và định chế tổ chức bộ máy.
Ông nêu rõ, việc có một khu bảo tồn biển thì cần phải có bộ máy quản lý riêng biệt. Hiện tại, với mục tiêu tinh giản các đơn vị sự nghiệp theo Nghị quyết 18, 19, tổ chức bộ máy chi cục thủy sản ở địa phương và cấp huyện không đủ nhân lực để bảo tồn không gian biển. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ để đảm bảo nguồn nhân lực và nguồn lực tài chính cần thiết.
Lấy ví dụ tại Hòn Yến, Phú Yên, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đánh giá đây là một trong những mô hình tương đối thành công. Lãnh đạo Bộ NN&PTNT mong muốn những mô hình này sẽ trở thành một xung lực mới cho bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
“Bao nhiêu luật lệ, bao nhiêu hướng dẫn hay bao nhiêu thông thư thậm chí quy định từng kích thước mắt lưới cũng không thể thành công, nếu không có bà con ngư dân. Bà con ngư dân cần xem đây là câu chuyện của mình, trong làng trong xóm, trong cộng đồng khi liên quan đến bảo tồn biển. Hơn nữa, hoạt động bảo tồn do con người tạo ra và duy trì, nếu không tạo ra được sinh kế cho những người xung quanh vùng bảo tồn sẽ không thành công”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.
Có thể thấy, để bảo tồn nguồn lợi thủy sản thành công, cần chú trọng tới việc tạo ra sinh kế bền vững cho người dân sống quanh khu vực bảo tồn. Chỉ khi người dân thấy được lợi ích thiết thực và giá trị của việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, họ mới thực sự tham gia và hỗ trợ các nỗ lực bảo tồn.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, câu chuyện giữ rừng, giữ biển ở Cù lao Chàm là một trong những khu bảo tồn biển và trở thành một biểu tượng thành công nhất trong hoạt động quản lý biển ở Quảng Nam. Đây có thể là gợi ý cho các địa phương để có cách tiếp cận khác ngoài nguồn lực nhà nước, đó là tiếp cận nguồn lực từ cộng đồng trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Trước khi có Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, sản lượng 850.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 0,8 - 1 tỷ USD. Đến năm 2030, diện tích nuôi biển đạt 300.000 ha, sản lượng 1,45 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ USD.
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và thủy sản của Việt Nam đặt mục tiêu xây dựng ngành thủy sản trở thành một ngành kinh tế có quy mô lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu và có khả năng cạnh tranh cao.