Đây là một trong những nhận định được Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra tại báo cáo quý 1/2024: Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 giữ vững vĩ mô, tạo đà phục hồi.
Phục hồi thiếu bền vững
TS. Nguyễn Quốc Việt - Phó Viện trưởng VEPR đánh giá: bất chấp khó khăn về thương mại toàn cầu suy giảm, kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay vẫn cho thấy sức chống chịu tốt trước những biến động của kinh tế thế giới. Đó là kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đến hết tháng 4 ước đạt hơn 123 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ; thu hút FDI tiếp tục là điểm sáng khi vốn FDI thực hiện đạt cao nhất của 4 tháng đầu năm trong 5 năm qua; GDP tăng trưởng tích cực, công nghiệp phục hồi...
Tuy nhiên, chuyên gia của VEPR cũng nhận định, sự phục hồi trên là chưa bền vững khi vẫn còn nhiều rủi ro bất định phía trước tác động. Các động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế như đầu tư tư nhân, cầu tiêu dùng có xu hướng giảm cả về tốc độ tăng trưởng lẫn đóng góp chung vào tăng trưởng GDP.
Đặc biệt, các doanh nghiệp vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn khiến bức tranh phát triển doanh nghiệp trở nên ảm đạm trong quý 1 vừa qua. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cao hơn 1,5 lần so với doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong quý đạt hơn 720.000 tỷ đồng, giảm 4,3% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng quý 1 đạt thấp nhất trong 10 năm qua dù lãi suất cho vay đã hạ rất thấp. Nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp chưa tăng mạnh do hiệu suất kinh doanh giảm, doanh nghiệp cắt giảm các khoản vay.
Không chỉ những khó khăn từ môi trường bên ngoài, nội lực của doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa được cải thiện, năng lực cạnh tranh yếu kém. Theo VEPR, những vấn đề này đáng báo động, tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong trung và dài hạn cũng như phản ánh sự thiếu hụt các động lực tăng trưởng mạnh mẽ trở lại.
Ở góc nhìn khác, chuyên gia của VEPR nhận định, tình hình ảm đạm trong hoạt động của doanh nghiệp lẫn đầu tư tư nhân thời gian qua còn ảnh hưởng đến các chỉ tiêu vĩ mô về năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có thể thấy trong vài năm gần đây, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đang có xu hướng giảm. Từ năm 2021-2023, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội chỉ đạt 4,36- 4,69%, thấp hơn mức bình quân của giai đoạn 2016-2020 là 6,26%.
Dự báo tăng trưởng GDP 2024 từ 5,5 - 6%
Từ thực tế trên, VEPR thận trọng dự báo tăng trưởng GDP của năm trong khoảng 5,5 - 6%. Để thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế, VEPR khuyến nghị thực hiện 5 nhóm giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường giải ngân đầu tư công đảm bảo đúng tiến độ và tập trung, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng để tạo ra một nền tảng vững chắc và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ hai, ưu tiên các chính sách và cải cách nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào môi trường đầu tư để khuyến khích doanh nghiệp quay lại thị trường và mở rộng quy mô. Các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cần cụ thể và khả thi như chính sách hỗ trợ xuất khẩu khá thành công.
Về lâu dài, các chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy và nâng tầm chất lượng tăng tưởng của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, do động lực tiêu dùng nội địa còn yếu cần tiếp tục giảm thuế VAT trong năm 2024 và cân nhắc mở rộng thêm đối tượng áp dụng. Đồng thời, có thêm chương trình và chính sách kích cầu tiêu dùng cụ thể, cần đi theo hướng hỗ trợ trực tiếp người tiêu dùng thanh toán chi phí mua sản phẩm, dịch vụ, nhất là để định hướng tiêu dùng theo các xu hướng tiêu dùng xanh, sạch, bảo vệ môi trường góp phần thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050.
Thứ tư, đảm bảo hài hoà, hiệu quả trong mục tiêu tăng trưởng tín dụng hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nói riêng, thúc đẩy tiêu dùng và phục hồi tăng trưởng nói chung đồng thời vẫn phải đảm bảo an toàn tín dụng của hệ thống tài chính. Thúc đẩy đa dạng hoá các kênh dẫn vốn và đầu tư ngoài tín dụng ngân hàng như nâng cao hiệu quả và tính minh bạch thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các kênh dẫn vốn khác gắn với tín dụng xanh, chuyển dịch năng lượng công bằng, cho thuê tài chính…
Thứ năm, nâng cao mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế và của các doanh nghiệp Việt Nam, phát huy hiệu quả các FTA và khả năng hội nhập, tham gia sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu, gia tăng giá trị nội địa trong các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu từ đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, mức độ đóng góp của xuất khẩu trong nền kinh tế.