Đề nghị giảm giờ làm việc lao động khu vực tư xuống 44 giờ/tuần
Đại biểu (ĐB) Phạm Trọng Nghĩa (đoàn Lạng Sơn) tỏ ra băn khoăn khi chỉ tiêu tăng năng suất lao động xã hội ước đạt 3,77 – 4,76% (chỉ tiêu Quốc hội giao là 5 – 6%). Đây là năm thứ 3 liên tiếp không đạt chỉ tiêu này. “Đáng lo ngại là tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đang có xu hướng giảm. Giai đoạn 2021 – 2023 chỉ đạt 4,36 – 4,69%, thấp hơn mức bình quân 6,26% của 3 năm 2016 – 2018”, ĐB Nghĩa nêu và đề nghị Chính phủ đánh giá bổ sung nguyên nhân, xác định trách nhiệm và có giải pháp quyết liệt.
Đặc biệt, theo ông Nghĩa, sau gần 40 năm đổi mới, giờ làm việc của người lao động khu vực tư nhân không giảm (48 giờ/tuần) trong khi giờ làm thêm đã tăng lên gấp 3 lần. “Người lao động cần được quan tâm, được chia sẻ và phải được thụ hưởng tốt hơn từ những thành quả phát triển của đất nước. Đề nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội giảm giờ làm việc bình thường cho người lao động trong khu vực tư từ 48 giờ/tuần xuống 44 giờ/tuần, tiến tới 40 giờ/tuần như trong khu vực công (đã thực hiện từ 1999)”, ông Nghĩa nêu.
Chia sẻ thêm bên hành lang Quốc hội, ĐB Nghĩa dẫn chứng thống kê của quốc tế, trong 154 nước chỉ có 2 nước có số giờ làm việc trên 48 giờ một tuần; 1/3 số nước áp dụng số giờ làm 48 giờ/tuần như VN; 2/3 số nước áp dụng dưới 48 giờ. Bên cạnh đó, mức lương tối thiểu vùng hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng được điều kiện khó khăn trong đời sống của người lao động khu vực tư so với phần trượt giá hiện nay.
Cùng quan điểm này, theo ĐB Trần Văn Khải (Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường Quốc hội), theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động của VN năm 2022 chỉ bằng 12,2% mức năng suất lao động của Singapore, bằng 24,4% của Hàn Quốc. Tổ chức Năng suất châu Á (APO) đánh giá năng suất lao động của VN tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.
Cho rằng nền kinh tế đang “khát” nguồn nhân lực chất lượng cao, ông Khải dẫn chứng trong lĩnh vực chip bán dẫn, dự báo cần đào tạo 50.000 – 100.000 nhân lực giai đoạn 2025 – 2030. Đặc biệt, khi quan hệ kinh tế Việt – Mỹ được nâng cấp sẽ mở ra cơ hội lớn phát triển ngành sản xuất quan trọng, sản phẩm cốt lõi của công nghệ cao, sống còn của thế giới hiện đại như: chất bán dẫn, chip, kim loại hiếm…
“Dù chúng ta thiện chí đến đâu, đầu tư hạ tầng, nhà xưởng sẵn sàng thế nào… nhưng nếu chưa có “ổ lót” là lao động chất lượng cao và năng suất lao động không được cải thiện thì làm sao đại bàng công nghệ hạ cánh đẻ trứng vàng?”, ĐB Khải nêu và đề xuất cần có những chính sách đột phá để gỡ nút thắt về nhân lực cũng như năng suất lao động.
“Tính thuế thế, doanh nghiệp không chịu nổi”
Nêu ý kiến thảo luận về khó khăn của doanh nghiệp, theo ĐB Dương Văn Phước (đoàn Quảng Nam), dù Đảng, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ, đồng hành, song nhiều doanh nghiệp rất khó khăn, đặc biệt là khả năng tiếp cận vốn vay, gánh nặng thuế, giá cả biến động, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể, doanh nghiệp rất khó tiếp cận khoản vốn vay trung, dài hạn do điều kiện vay nghiêm ngặt, thủ tục phức tạp, hầu hết chỉ có thể tiếp cận khoản vay ngắn hạn.
Trong khi đó, các doanh nghiệp đang phải gồng mình với các khoản thuế. Ngay cách tính thuế, áp thuế cũng gây rất nhiều khó khăn. “Ví dụ ở Quảng Nam có doanh nghiệp sân golf doanh thu một năm 100 tỉ đồng nhưng phải đóng thuế tới 45 tỉ”, ông Phước nêu và cho biết doanh nghiệp đã kiến nghị nhiều lần vì cách tính thuế như vậy thì không thể chịu nổi.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đang phải đối mặt với giá cả thường xuyên biến động tăng cao, nhất là giá vật liệu xây dựng, nhân công. Nhiều đơn giá của nhà nước chậm thay đổi, còn quá thấp, doanh nghiệp xây dựng gặp nhiều khó khăn, thi công cầm chừng. “Doanh nghiệp chấp nhận chịu phạt chậm tiến độ còn hơn là bị thua lỗ vì giá cả tăng cao”, ông Phước nói và cho rằng đây chính là nguyên nhân khiến tình trạng giải ngân vốn đầu tư công thấp.
ĐB này cũng kiến nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ kịp thời, thiết thực hơn, nhất là trong lĩnh vực vốn. Theo đó, Chính phủ cần thiết kế các gói tín dụng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Trước mắt tập trung khơi thông nguồn vốn ngân hàng thông qua tiếp tục hạ lãi suất, nới lỏng điều kiện cho vay.
Cụ thể, ông Phước đề nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo ngân hàng thương mại sớm hạ tiêu chuẩn về đánh giá lai lịch, lịch sử trả nợ khách hàng, doanh nghiệp. Đồng thời giãn nợ, cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng ảnh bị hưởng bởi đại dịch Covid-19, để doanh nghiệp có thể thêm thời gian phục hồi, trả nợ và khắc phục nợ xấu. Cạnh đó, cần chú trọng nuôi dưỡng nguồn thu, xem xét điều kiện để từng doanh nghiệp để có chính sách giảm thuế phù hợp.