Sách Âm ca tập điểm qua một số thông tin về Hồ Xuân Hương. Theo đó, Hồ Xuân Hương nguyên quán ở làng Quỳnh Đôi, H.Quỳnh Lưu, Nghệ An. Sau này, bà sinh sống tại phường Khán Xuân, Hà Nội. "Cuộc đời bà lận đận nhiều trong đường tình duyên, vì thế thơ bà sắc sảo chua cay và có phong cách độc đáo riêng", theo Những gương mặt phụ nữ Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm.
Năm sinh, năm mất của bà người đời không rõ, chỉ biết bà sống khoảng thời gian cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, tương ứng với thời Lê mạt và Nguyễn sơ. Trong Quốc văn trích diễm, nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm khi đề cập nữ thi sĩ cùng thơ bà, cho rằng "nàng là một tay nữ sĩ, người rất tài tình, lại giỏi thơ văn. Nhưng chả may số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên thổ lộ ra lời thơ giọng văn hoặc chua cay, hoặc lơ lẳng".

Tác phẩm Thơ Hồ Xuân Hương, bản in năm 1967 ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Sở dĩ nói bà lận đận tình duyên, bởi Hồ Xuân Hương trải ba đời chồng nhưng họ đều mệnh yểu. Trong nhiều tài liệu nghiên cứu có một số ý kiến cho rằng bà có hai đời chồng là Tổng Cóc và Tri phủ Vĩnh Tường, nhưng thực tế sử sách còn ghi người chồng thứ ba của bà nữa. Người chồng đầu là Tổng Cóc kết hôn được vài năm thì mất. Sau này nữ thi sĩ gá nghĩa làm lẽ của Tri phủ Vĩnh Tường, rồi ông Tri phủ cũng mất. Mối tình cuối, bà làm vợ quan Tham hiệp Yên Quảng, nhưng như Quốc sử di biên cho biết "Hiệp trấn Yên Quảng vì tội hống hách lấy của dân nên bị khép án tử hình". Thật là hồng nhan bạc phận, hữu tài vô duyên là đây.
Trong tình yêu, hạnh phúc riêng, bà thể hiện tình chồng nghĩa vợ sâu đậm với người mình đầu gối, tay ấp. Những giọt lệ tiếc thương rõ qua thơ ở bài Khóc ông Phủ Vĩnh Tường khi người chồng bạc phận qua đời: "Hăm bảy tháng trời là mấy chốc/Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi". Đồng thời, cũng đau đớn cho phận đàn bà như chiếc bánh trôi nước giữa dòng đời "bảy nổi ba chìm", nhất là khi phải chịu phận làm lẽ trong bài Phận lẽ mọn, thấm cái cảnh có chồng mà như kẻ chăn đơn gối chiếc: "Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng/Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Năm thì mười họa, nên chăng chớ/Một tháng đôi lần, có cũng không" như Giai nhân di mặc có đề cập.

Tác phẩm Giai nhân di mặc - Sự tích và thơ từ Xuân Hương quyển thứ nhất và quyển thứ nhì của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến in năm 1926 ẢNH: TƯ LIỆU
Thơ văn đứng riêng một phái
"Về thơ văn thì bà đứng riêng hẳn ra một phái. Bài nào cũng chứa chan tình tự: hoặc lẳng lơ, hoặc chua chát. Chữ dùng thuần nôm mà rất khéo, tả cảnh nào rõ ra cảnh ấy; vẫn hay gieo những vần oái oăm mà rất hiệp. Thật là một người có thiên tài về thơ nôm vậy", GS Dương Quảng Hàm đã đúc kết như thế trong tác phẩm Văn học Việt Nam. Theo Những gương mặt phụ nữ Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm: "Thơ bà còn để lại trong tập Lưu Hương ký và rải rác ở nhiều sách. Có thể nói, bà là một nhà thơ nữ rất độc đáo cuối thời Hậu Lê. Bà chỉ làm thơ quốc âm".
Trong Quốc sử di biên, khi đề cập người chồng thứ ba của Hồ Xuân Hương là Tham hiệp Yên Quảng, sách này cũng lưu ý về nữ thi sĩ, "người vợ bé của quan Tham hiệp Yên Quảng lúc ấy tên là Xuân Hương vốn hay văn chương và chính sự nên được người đời khen là "Nữ tài tử"". Sự nghiệp văn chương của bà, thực khác với đa phần người đương thời dạo đó. Đề cập thơ bà, người đời vẫn quen dùng cách gọi "Bà chúa thơ Nôm" để chỉ nữ thi sĩ.
Đề tài trong thơ bà, theo Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ XIX, đa phần bắt nguồn từ thực tế cuộc sống, "đòi quyền sống cho con người, nhất là quyền phụ nữ". Nghiên cứu Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại cũng nêu ý kiến tương đồng khi nhấn mạnh trong xã hội Nho giáo, vị trí của người phụ nữ phụ thuộc vào nhiều quan niệm, định chế xã hội, Hồ Xuân Hương đại diện cho tiếng nói của nữ giới phản kháng những bất công với giới mình, thế nên câu thơ ""Ví đây đổi phận làm trai được!" thốt lên từ tâm trạng đau xót và bất bình của Hồ Xuân Hương". Lối thơ trào phúng là lợi khí sắc bén của nữ thi sĩ và mang tính hình tượng cao, từ những cảnh, những vật rất đời thường vẫn có thể gợi cảnh, gợi tình rất văn chương, như đôi câu "Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?/Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không" (bài Đánh đu), hay gợi ý qua cái quạt "Hồng hồng má phấn duyên vì cậy/Chúa dấu vua yêu một cái này" (bài Vịnh cái quạt)… Cũng có lúc bà thể hiện sự nổi loạn trong tư tưởng, muốn thoát khỏi những định chế ràng buộc khi "Giơ tay với thử trời cao thấp/Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài", hoặc "Ví đây đổi phận làm trai được/Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu" (bài Đề đền Sầm Nghi Đống)…
Đời sau, quý mến tài năng của bà, có người làm thơ tiếc thương nữ tài tử, được Giai nhân di mặc ghi lại, có đoạn: "Người Cổ Nguyệt, truyện Xuân Hương còn đó/Phận hồng nhan nghĩ lại rõ buồn tênh!/Thương cho tài, mà ngán cho tình!/Nông nỗi ấy kể sao cho xiết".





.jpg)






.jpg)



