Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút có viết về họ Nguyễn ở Tiên Điền, cụ thể ở đây chính là gia tộc Nguyễn Nghiễm, cha của Nguyễn Du. Theo đó, gia tộc nhà Nguyễn Du là một dòng khoa bảng khi cha đỗ tiến sĩ, làm quan to trong triều, anh là Nguyễn Khản cũng đỗ tiến sĩ, từng được chúa Trịnh Sâm trọng dụng. Dương Quảng Hàm ghi trong Văn học Việt Nam, "tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu Lê" chính là nói về dòng dõi trâm anh thế phiệt của Nguyễn Du.
Xem trong Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, được biết Nguyễn Du là con thứ bảy của Nguyễn Nghiễm, có tên chữ Tố Như, tên hiệu Thanh Hiên. Sự thông minh của Nguyễn Du đã được biết đến từ nhỏ, "ông dáng mạo khôi ngô, Việp quận công [Hoàng Ngũ Phúc] trông thấy khen là khác thường, liền tặng cho một thanh bảo kiếm. Lên sáu tuổi đi học, đọc sách một lần thì nhớ", vẫn sách trên ghi. Tiếp đường khoa cử của cha anh, năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường khi 19 tuổi. Đến khi Tây Sơn ra Bắc, vua Lê chạy sang Trung Hoa, "Du trước vì gia thế làm quan nhà Lê", nên "không có chí lại ra giúp đời nữa, còn tự ý đi chơi săn bắn núi Hồng Sơn 99 ngọn, vết chân hầu khắp", Đại Nam liệt truyện cho hay.

Tượng Nguyễn Du tại khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du ở Hà Tĩnh ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Năm Nhâm Tuất (1802) khi nhà Nguyễn được lập, Nguyễn Du được triệu ra làm tri huyện huyện Phù Dung (Khoái Châu), rồi ít lâu sau được thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm Quý Hợi (1803), sứ nhà Thanh sang nước ta, Nguyễn Du tham gia đoàn tiếp sứ, "việc đãi tiệc và làm thơ tiễn sứ thần về nước, đều do Nguyễn Du thảo văn", theo Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các học sĩ. Đến năm Kỷ Tỵ (1809), ông làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm Quý Dậu (1813), Đại Nam thực lục chép, "lấy Cai bạ Quảng Bình là Nguyễn Du làm Cần chánh điện học sĩ, sung Chánh sứ sang cống nước Thanh (hai lễ cống Tân Mùi, Quý Dậu), Thiêm sự Lại bộ là Trần Vân Đại và Nguyễn Văn Phong sung Giáp ất phó sứ". Sau khi đi sứ về, Nguyễn Du được thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mạng sung làm Chánh sứ sang nhà Thanh, nhưng chưa kịp đi thì mất.
Về tiết tháo, tính tình của Nguyễn Du, gom qua một số tài liệu, có thể dựng được một phác thảo cơ bản. Đại Nam liệt truyện ghi lại nhiều chi tiết khen ngợi đại thi hào: "Du là con nhà tướng, có văn tài sẵn khí tiết...". "Tính ông khiêm tốn, tuy làm đến chức á khanh, nhưng ông sống giản dị, thanh nhã như học trò nghèo", theo sách Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền.

Sách Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi chép chi tiết về cuộc đời đại thi hào Nguyễn Du ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Làm quan giản dị được dân yêu
Giỏi từ chương thơ phú, Nguyễn Du còn tỏ ra là người liên tài khi Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết "cầm kỳ thi họa không môn nào là ông không tinh diệu. Ông lại thông cả binh pháp, giỏi võ nghệ". Trên bước đường công danh, Nguyễn Du cũng xứng với công sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha, với danh tiếng của dòng họ Nguyễn Tiên Điền quê ông khi làm quan trong sạch, giữ tiếng tốt. Lời khen ngợi còn để lại trong sách xưa. Ấy là: Năm Kỷ Tỵ (1809), Nguyễn Du làm Cai bạ doanh Quảng Bình. Ở đất này, theo Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền "những việc trong hạt như lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực, thuế khóa, ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thủ, ký lục để thi hành"… "Nguyễn Du giữ chức cai bạ bốn năm, làm việc chính sự giản dị, không cầu nổi tiếng nên được các sĩ phu và nhân dân tin yêu".
Tiếng tốt làm quan của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở đất Quảng Bình. Trong Quốc sử di biên cho hay, năm Bính Tý (1816), Nguyễn Du được vua Gia Long bổ làm Hữu thị lang Bộ Lễ: "Nhờ giỏi văn chương và tri thức quảng bác, Nguyễn Du đã được trọng dụng. Ông còn giỏi về các thể thơ từ, phú quốc ngữ, từng sáng tác Kim Vân Kiều truyện. Hơn nữa, ông đi làm quan nơi xa không để xảy ra điều gì đáng tiếc, được thiên hạ truyền tụng. Phạm Quý Thích có làm bài tán khen ngợi". Đại Nam liệt truyện trong phần ghi về thân thế Nguyễn Du, cũng nhấn mạnh dấu ấn của ông khi làm quan là "trị dân có chính tích".
Ngoài thành tích làm quan giữ tiếng tốt, sử sách của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng chú ý tới tài năng thơ phú hơn người của Nguyễn Du, như Đại Nam liệt truyện có chép, "Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ Bắc hành và truyện Thúy Kiều lưu hành ở đời". Còn Đại Nam thực lục thì ghi: "Du là người Nghệ An rộng học giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ".
Đời làm quan của Nguyễn Du so với nhiều người dẫu ngắn chỉ 18 năm, nhưng kể ra thực tốt đẹp như câu đối điếu ông của đồng liêu ở kinh đô Phú Xuân, được Nguyễn Thị Bích Đào dịch nghĩa như sau: "Một đời tài hoa, đi sứ làm khanh, sống chẳng thẹn/Trăm năm sự nghiệp, trong nhà ngoài nước, chết còn vinh".




.jpg)







.jpg)



