Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng – nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Thuỷ sản (Bộ Thuỷ sản – nay là Bộ NN&PTNT), trong 60 năm qua, thủy sản là ngành tiên phong kiến tạo nền sản xuất hàng hóa tập trung với quy mô lớn và đã được minh chứng. Trong đó, doanh nghiệp đã thể hiện được vai trò là nòng cốt để tiếp cận các chuỗi giá trị, thiết lập liên kết dọc từ khai thác, nuôi trồng thủy sản đến bảo quản, chế biến, xuất khẩu và đã từng bước đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, hướng đến phát triển ổn định, bền vững.
Lấy doanh nghiệp làm nòng cốt
Đặc biệt, Luật Thủy sản (sửa đổi) năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 và Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 với các điều khoản chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản, trong đó đã có những quy định đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc chuyển từ “Nghề cá nhân dân” sang “Nghề cá thương mại bền vững”.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, song song với các giải pháp, việc cụ thể hóa Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018 của Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021, phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trên cơ sở xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô hàng hóa lớn, định hướng thị trường, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu; thu hút nguồn lực các thành phần kinh tế. Trong đó, lấy doanh nghiệp làm trọng tâm để chủ động trong nuôi biển, hạn chế khai thác bất hợp pháp “IUU”, hướng tới giảm sản lượng khai thác thủy sản còn 2,8 triệu tấn/năm, tăng cường phát triển nuôi trồng thủy sản đạt sản lượng đến 7 triệu tấn/năm vào năm 2030, chiếm trên 70% tổng sản lượng thủy sản của cả nước.
Song, để phát huy hiệu quả, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, cho rằng các cơ quan chức năng từ Trung ương tới địa phương cần phải có chiến lược cụ thể, rõ ràng để làm sao phát triển nuôi trồng thủy sản biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa lớn, khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản ở tầm cỡ quy mô công nghiệp, đặc biệt ở các vùng biển mở, nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn phục vụ cho chế biến xuất khẩu, cũng như tiêu thụ nội địa.
Đánh giá ở góc độ khoa học và công nghệ, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, với trình độ công nghệ hiện nay, các quốc gia có thể phát triển nuôi cá biển với 0,1% diện tích vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc gia thì đã có thể cho năng suất từ 9.900 đến 11.600 tấn/năm.
Như vậy, trên khoảng 0,1% diện tích vùng của nước ta (tức 1000 km2), Việt Nam có thể nuôi được 10 triệu tấn cá biển mỗi năm, chưa kể hàng triệu tấn các loài hải sản khác, như: nhuyễn thể, rong biển, động vật da gai…
Đảm bảo quy tụ đủ “4 nhà”
Theo bà Nguyễn Thị Phỉ - Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH SYA QUA-ADN, hiện nay, nghề nuôi biển ở Việt Nam vẫn chủ yếu dừng lại ở trình độ thủ công, truyền thống. Do đó, để phát triển mô hình nuôi biển ổn định và bền vững phải quy tụ đủ “4 nhà”, gồm: Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông - doanh nghiệp và ngân hàng - bảo hiểm. Sở dĩ việc phải quy tụ đủ “4 nhà” là nhằm mục đích thay đổi cơ bản phương thức tổ chức sản xuất mà bấy lâu nay ngành nông nghiệp nói chung và nuôi biển nói riêng vẫn chưa thực hiện được.
Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế biển, đặc biệt, để hiện thực hoá “đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”, đã được thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021, thì việc đảm bảo quy tụ đủ “4 nhà” là yếu tố then chốt dẫn đến thành công. Trong đó, lấy doanh nghiệp làm nòng cốt, trọng tâm để thiết lập liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị, một mặt để đảm bảo ổn định, an toàn từ khâu con giống đến nuôi thương phẩm và một mặt đáp ứng được tiêu chí từ khâu chế biến cho đến xuất khẩu cũng như tiêu thụ nội địa.
Về nhiệm vụ trọng tâm, bà Phỉ cho rằng, đã đến lúc Nhà nước cần khẩn trương thực hiện quy hoạch vùng nuôi; giao các khu vực biển nhất định với thời gian dài cho các hộ ngư dân thuê (theo Luật Thủy sản 2017 là đến 30 năm và có thể gia hạn thêm 20 năm); đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích người dân và doanh nghiệp thành lập mô hình hợp tác xã để phát triển nuôi biển theo phương thức công nghiệp, công nghệ cao để đảm bảo chất lượng cung ứng cho thị trường nội địa cũng như xuất khẩu.
“Đối với nhà khoa học, nghiên cứu khoa học kỹ thuật đối với các yếu tố về môi trường, phương thức, điều kiện nuôi từ con giống cho đến nuôi thương phẩm để hạn chế rủi ro không đáng có cho người dân.
Đối với ngân hàng, bảo hiểm cần chia sẻ với người dân và doanh nghiệp trong việc hỗ trợ vay nguồn vốn ưu đãi để người dân có cơ hội tiếp cận, đầu tư, thay đổi phương thức nuôi, thay đổi vật liệu lồng nuôi truyền thống sang vật liệu HDPE (Hight Density Poli Etilen – an toàn, giảm thiểu tác hại môi trường), để đảm bảo trong quá trình nuôi.
Về phía bảo hiểm cần mạnh dạn và chia sẻ với người dân, thay vì tâm lý sợ rủi ro cao đối với ngành nông nghiệp, đã khiến cho người dân luôn trong trạng thái chênh vệnh và không được bảo vệ”, bà Nguyễn Thị Phỉ kiến nghị.