Vụ án kéo dài đã hơn 2 năm, với những diễn biến khá căng thẳng đến từ nguyên đơn và bị đơn. Phía tòa án từng nhiều lần tạo cơ hội để hai bên ngồi lại với nhau, tìm tiếng nói chung, nhưng đều bất thành.
"Sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm tới ai"
Theo nội dung đơn khởi kiện, cụ Nguyệt và chồng kết hôn, có 3 người con chung, gồm 2 gái, 1 trai. Hai cụ có tài sản chung là mảnh đất rộng 44 m2, trên đất có ngôi nhà 4,5 tầng, tại Q.Đống Đa, Hà Nội.
Năm 2020, chồng cụ Nguyệt qua đời, sau đó 1 năm thì con trai cụ, đồng thời là chồng bà Hoa, cũng mất. "Tôi và con dâu sống không được hòa thuận, tuy sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm tới ai", cụ Nguyệt nêu trong đơn.
Do mâu thuẫn, cụ Nguyệt quyết định khởi kiện con dâu, đề nghị tòa án chia tài sản chung của 2 vợ chồng cụ, chia thừa kế đối với phần tài sản của chồng cụ và con trai cụ. Cụ mong muốn được giao quản lý ngôi nhà, sẽ có trách nhiệm trả kỷ phần bằng tiền cho các đồng thừa kế.
Ngược lại với cụ Nguyệt, bà Hoa không đồng tình yêu cầu của mẹ chồng. Trong đơn trình bày đến tòa, bà Hoa cho biết về làm dâu từ năm 2000, "luôn yêu thương mẹ chồng như mẹ ruột". Bà Hoa nói nhiều năm chung sống đều hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ chồng, nay biết mẹ chồng khởi kiện để chia tài sản thừa kế, bà rất "đau đớn, chua xót".
Bà Hoa thừa nhận diện tích đất 44 m2 được phân cho cha chồng, tuy nhiên tiền mua là do vợ chồng bà bỏ ra. Ban đầu căn nhà trên thửa đất chỉ là nhà cấp 4. Sau này, để cuộc sống khang trang hơn, vợ chồng bà dùng tiền tiết kiệm, vay mượn thêm, xây lên ngôi nhà 4,5 tầng. Trước khi xây, vợ chồng bà Hoa có hỏi ý kiến cha mẹ và 2 chị chồng, không ai ý kiến phản đối gì.
Trong trường hợp chia thừa kế, bà Hoa đề nghị tòa tính toán công sức của mình trong việc tạo lập, phát triển, làm tăng giá trị tài sản đối với ngôi nhà, đồng thời được tính công sức đã chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ chồng. Phía bị đơn cũng có nguyện vọng nhận di sản bằng hiện vật, sẽ thanh toán phần chênh lệch cho những người thừa kế khác.
Không thể tìm tiếng nói chung
Quá trình xét xử, cả nguyên đơn và bị đơn đều không trực tiếp ra tòa. Cụ Nguyệt ủy quyền cho con gái thứ hai là bà Bốn. Bà Hoa cũng ủy quyền cho luật sư.
Bà Bốn trình bày tại tòa rằng cha mình là giảng viên Trường ĐH GTVT nên được trường phân căn nhà cấp 4 trên đất từ năm 1998. Cha mẹ bà Bốn sau đó mua lại nhà đất này và được cấp "sổ đỏ" vào năm 2010. Đến năm 2012, gia đình tháo dỡ căn nhà cấp 4 cũ để xây ngôi nhà 4,5 tầng hiện tại. Tiền xây nhà do cha mẹ bà bỏ ra, còn có đóng góp của các con.
Ngược lại, luật sư của bà Hoa lại cho rằng khi mua đất, các thành viên trong gia đình, gồm bà Hoa là con dâu, thống nhất để vợ chồng cụ Nguyệt đứng tên trong đơn, tiền mua đất do vợ chồng bà Hoa bỏ ra (có giấy tờ thể hiện bà Hoa là người nộp tiền). Vì thế, quyền sử dụng thửa đất phải là của cả gia đình chứ không phải của riêng vợ chồng cụ Nguyệt.
Đối với ngôi nhà 4,5 tầng, phía bị đơn cung cấp tài liệu dày hàng trăm trang, bao gồm các loại hóa đơn, chứng từ để chứng minh vợ chồng bà Hoa bỏ tiền xây dựng, thuê thi công, thiết kế… Do đó, ngôi nhà thuộc sở hữu của vợ chồng bị đơn.
Nêu quan điểm giải quyết, đại diện viện kiểm sát nhận định chồng cụ Nguyệt được Trường ĐH GTVT phân nhà, xí nghiệp quản lý nhà căn cứ vào đây để bán, nên tài sản này là thuộc sở hữu của vợ chồng cụ. Số tiền mua nhà đúng là bà Hoa ký thay, tuy nhiên không có chứng cứ chứng minh đây là tiền của vợ chồng bà Hoa.
Đại diện viện kiểm sát còn cho rằng vợ chồng bà Hoa khi đó không đủ điều kiện kinh tế để nộp khoản tiền mua nhà, vì không có công việc, đang nuôi con nhỏ. Số tiền bà Hoa nói bỏ ra xây nhà cũng vậy, các tài liệu không đầy đủ, không ghi rõ ràng tên công trình nên không thể xác định đó có phải các hóa đơn, chứng từ xây dựng đối với căn nhà 4,5 tầng hay không.
Không đồng tình, đại diện bà Hoa khẳng định tại thời điểm xây nhà, vợ chồng bà đã có công việc ổn định. Số tiền này không hoàn toàn là tiền của vợ chồng bà kiếm ra mà còn bao gồm tiền do mẹ đẻ cho khi đi làm dâu và tiền vay mượn bạn bè. Tuy nhiên, bà không thu thập, lưu giữ các hóa đơn, chứng từ vì "chưa bao giờ nghĩ tới việc phải ra tòa để tranh chấp với mẹ chồng".
Tòa quyết định chia thừa kế ra sao?
Sau khi cân nhắc, hội đồng xét xử đồng ý với quan điểm của viện kiểm sát, xác định quyền sử dụng thửa đất 44 m2 - được định giá hơn 8,2 tỉ đồng - là tài sản của vợ chồng cụ Nguyệt, căn nhà 4,5 tầng - được định giá hơn 1 tỉ đồng - do vợ chồng bà Hoa và cha mẹ chồng cùng xây dựng nên chia đôi mỗi bên một nửa.
Riêng về đề nghị tính toán công sức chăm sóc của bà Hoa, tòa cho rằng vợ chồng bà sống chung với cha mẹ chồng, nếu có chăm sóc thì đây cũng là nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ, nên không quy thành chi phí để xem xét khi chia tài sản.
Với nhận định trên, cụ Nguyệt và chồng mỗi người sở hữu 1/2 giá trị quyền sử dụng đất và 1/4 giá trị căn nhà, tương đương gần 4,4 tỉ đồng.
Chồng cụ Nguyệt mất nên di sản sẽ chia cho 4 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, gồm cụ Nguyệt (là vợ) và 3 con, mỗi người gần 1,1 tỉ đồng.
Chồng bà Hoa được hưởng di sản của cha và 1/4 giá trị căn nhà, tổng gần 1,4 tỉ đồng. Ông này đã mất nên số tài sản trên sẽ chia cho 4 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, gồm: cụ Nguyệt (là mẹ), bà Hoa (là vợ) và 2 con gái của vợ chồng bà Hoa, mỗi người hơn 340 triệu đồng.
Như vậy, tổng số tài sản cụ Nguyệt được nhận là 5,8 tỉ đồng. Hai con gái cụ Nguyệt mỗi người được gần 1,1 tỉ đồng.
Bà Hoa được hưởng 1/4 giá trị căn nhà và phần thừa kế từ chồng, tổng cộng hơn 600 triệu đồng. Hai con gái của bà Hoa mỗi người được hưởng hơn 340 triệu đồng, tạm giao cho bà Hoa quản lý đến khi các cháu trưởng thành.
Tòa cũng quyết định giao toàn bộ nhà đất cho cụ Nguyệt quản lý, sử dụng. Cụ có trách nhiệm thanh toán bằng tiền cho những người được hưởng thừa kế nêu trên.
Con dâu kháng cáo
Quá trình xét xử, tòa cho biết bà Hoa từng yêu cầu được trả số tiền 2 tỉ đồng nhưng phía nguyên đơn chỉ muốn trả 1,8 tỉ đồng. "Con số thắng thua cũng chỉ chênh nhau 200 triệu đồng, có đáng đưa nhau đi kiện ngày này tháng khác không?", chủ tọa phân tích.
Sau nhiều lần thuyết phục, hai bên thống nhất và được tòa chấp nhận tạm dừng phiên xử để có thêm cơ hội thỏa thuận. Tuy vậy, cuối cùng vẫn không thể tìm được tiếng nói chung.
Bà Hoa đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, vẫn giữ quan điểm cho rằng quyền sử dụng khu đất là tài sản chung của hộ gia đình chứ không phải của vợ chồng cụ Nguyệt, căn nhà 4,5 tầng là tài sản của vợ chồng bà chứ không phải là di sản thừa kế; tòa không ghi nhận công sức chăm sóc của bà đối với cha mẹ chồng, không định giá đối với hệ thống công trình phụ và các tài sản khác gắn liền với ngôi nhà là thiếu khách quan, chính xác…