Bắt đầu từ ngày 1.8, luật Kinh doanh bất động sản có hiệu lực. Căn cứ theo điều 47 của luật này thì giá bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản, dự án bất động sản được đưa vào kinh doanh do các bên thỏa thuận và được ghi trong hợp đồng. Trường hợp Nhà nước có quy định về giá thì các bên phải thực hiện theo quy định đó.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản ghi đúng giá giao dịch thực tế trong hợp đồng, và chịu trách nhiệm trong việc ghi giá này.
Khi nào phải công chứng, chứng thực?
Điều 45 luật Kinh doanh bất động sản, quy định hợp đồng kinh doanh bất động sản được ký kết khi bất động sản đã có đủ điều kiện đưa vào kinh doanh, dự án đã có đủ điều kiện chuyển nhượng.
Hợp đồng kinh doanh bất động sản, hợp đồng kinh doanh dịch vụ bất động sản mà ít nhất một bên tham gia giao dịch là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được công chứng, hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên.
Riêng đối với hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng mà các bên tham gia giao dịch là cá nhân phải công chứng, hoặc chứng thực.
Thanh toán và phạt hợp đồng như thế nào?
Theo điều 48 luật Kinh doanh bất động sản, việc thanh toán trong giao dịch bất động sản, dự án bất động sản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng và tuân thủ quy định của pháp luật.
Chủ đầu tư dự án, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản, nhận tiền thanh toán theo hợp đồng từ khách hàng thông qua tài khoản mở tại tổ chức tín dụng trong nước, hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Việc phạt và bồi thường thiệt hại (như người mua chậm tiến độ thanh toán, hoặc bên bán, bên cho thuê chậm tiến độ bàn giao) do các bên thỏa thuận, và phải được ghi trong hợp đồng.
Điều kiện chuyển nhượng hợp đồng
Theo điều 50 luật Kinh doanh bất động sản, việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, thuộc diện chưa nộp hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định.
Thứ hai, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng không có tranh chấp đang được cơ quan có thẩm quyền thông báo, thụ lý, giải quyết, hoặc có tranh chấp về hợp đồng nhưng đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết bằng bản án, quyết định, phán quyết đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, nhà ở, công trình xây dựng thuộc hợp đồng mua bán, thuê mua không thuộc diện bị kê biên, thế chấp để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp được bên nhận thế chấp đồng ý.
Thứ tư, có hợp đồng mua bán, thuê mua được xác lập theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.