Những cảm xúc đặc biệt
Tuân thủ nguyên tắc "không có cái cao nhất nếu không có cái thấp nhất", Lewis bắt đầu với tình thân - thứ tình cảm mà ông cho rằng là cơ bản hơn cả. Đây là tình yêu nảy nở từ sự quen thuộc: tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong nhà, giữa người và vật nuôi ăn ở lâu ngày, giữa một người với cái nhà thờ mấy trăm năm tuổi ở địa phương… Theo Lewis, nó có thể gọi là cơ bản bởi không có thứ tình yêu này, người ta không bước nổi những bước đầu đời, không gìn giữ nổi những thứ tình yêu khác.
Kế đến là tình bạn. Đây là tình cảm nặng về "phần hồn", ít "phần xác" nhất. Theo tác giả, bằng hữu kết tụ nhờ có chung một mối quan tâm "cùng nhìn về một thứ" chứ không phải "nhìn vào nhau". Chính vì thế, về nghĩa nào đó, những hoạt động của tình bạn ít mang màu sắc vị kỷ.
Thứ 3 là luyến ái - cái đôi khi hất cẳng tất tật những tình yêu còn lại ra khỏi khái niệm tình yêu. Nó rất "sinh lý", và có nhiều người cho nó là "sinh lý" hơn cả. Thế nhưng như tác giả lưu ý, ở nơi thực sự có luyến ái, thì ham muốn thể xác chỉ đến sau cùng, chứ không phải là cái đầu tiên.
Cuối cùng mới là yêu thương. Theo Lewis, tất cả các tình yêu kia, ở mức độ nào đó, rồi cũng chỉ là một mặt của tình yêu này, cũng như một mặt phẳng nhỏ bé kia trên viên kim cương vốn có nhiều mặt. Mẹ mà ta thương, bạn mà ta trìu mến, tình nhân mà ta say đắm… tất cả rồi cũng chỉ là một phần, một phản chiếu nhỏ bé của đấng mà ta đã yêu. Và khi quên mất mình đã yêu, thì để được cứu rỗi, phải học yêu lại từ đầu.
Ngoài 4 chủ đề trên, trong cuốn sách này, Lewis cũng nhắc đến những thực tế vô cùng thiết thực, như mối nguy hại của việc sùng bái thế giới tự nhiên, về sự tai hại của một bên là yêu nước cực đoan, một bên là bài bác hoàn toàn tinh thần ái quốc, về sự dại dột của việc trông đợi thứ tình yêu này làm được công việc của thứ tình yêu khác...
Theo dịch giả Nguyễn Công Nam: “Bốn tình yêu không cho lời dạy, nhưng nó giải thích được rất nhiều buồn bực, lâng lâng, chán chường và mong mỏi trong tình cảm gia đình, trong tình bạn, trong tình yêu lứa đôi và (cho những ai tin) trong mối quan hệ giữa người và Chúa”.
Về cuốn sách này, tờ The New York Times cho rằng Bốn tình yêu “xứng đáng trở thành tác phẩm kinh điển thứ yếu như một tấm gương phản chiếu tâm hồn chúng ta - tấm gương soi những đức tính tốt và những khuyết thuyết trong tình yêu con người”. Trong khi đó, tờ Church Times ca ngợi Lewis “chưa bao giờ viết hay hơn thế. Mỗi trang đều lấp lánh những nhận xét mang tính soi sáng, khiêu khích và độc đáo”.
Một Lewis khác
Tuy lấy chủ đề là tình yêu, thế nhưng có một nghịch lý là phần lớn đời mình, Lewis sống không vợ và mãi không có con cái. Phải đến tuổi ngũ tuần, ông mới biết Joy Davidman - một nhà thơ Mỹ gốc Do Thái - qua thư và duy trì một tình bạn với bà, để rồi sau đó gặp gỡ trên đất Anh, đi đến hôn nhân.
Clive Staples Lewis sinh năm 1898 ở County Down (Ireland). Thời niên thiếu, ông đã học qua nhiều trường nội trú ở Anh nhưng đa phần đều kém vui vẻ, cuối cùng thì mới được gặp người thầy mà ông yêu mến và mang ơn là William Kirkpatrick.
Năm 17 tuổi, Lewis ghi danh vào Đại học Oxford, nhưng sau đó ông nhập ngũ, tham chiến ở Pháp, trước khi bị thương và được chuyển về Anh, kết thúc đời lính ngắn ngủi. Trở lại đại học, ông học giỏi và giành được hai bằng ưu: một Cổ điển học, một Văn chương Anh - môn học mới có ở Oxford lúc bấy giờ.
Ông vào Magdalen College thuộc Đại học Oxford năm 1929, và dạy học ở đây đến 1954 trước khi nhận lời mời từ Đại học Cambridge với tư cách giáo sư văn học Anh thời trung cổ và phục hưng. Từ đó cho đến khi qua đời, ông vẫn hằng tuần bắt xe bus về Oxford để tụ tập, trao đổi và thảo luận văn chương với các bạn trong nhóm Inklings, mà một thành viên quan trọng là J.R.R. Tolkien - “cha đẻ” tuyệt tác Chúa tể của những chiếc nhẫn.
Sự nghiệp của ông trải dài ở nhiều lĩnh vực, từ văn chương, phê bình cho đến xã luận mà Bốn tình yêu thuộc về. Thực tế, đây là một mảng mà các bạn bè trong học giới của ông ít quan tâm, thậm chí xem thường, nhưng lại được bàn tán nhiều trong xã hội dân thường.
Ông cũng để lại nhiều bài báo, bài luận về những vấn đề luân lý mà bất luận là vấn đề to hay nhỏ, đều được xử lý bằng một giọng văn gãy gọn, hài hước, rất nhẹ nhàng, vững luận lý.
Qua lập luận vững vàng, lối hành văn hóm hỉnh đan xen với những trích dẫn văn chương của một giáo sư ngữ văn hàng đầu nước Anh thời ấy, với Bốn tình yêu, Lewis đã dắt ta qua những hành trình cảm xúc một cách nhẹ nhàng, tạo cho người đọc cảm giác chính mình cũng có thể bước vào triết học của yêu đương một cách tường minh, qua đó cho thấy một Lewis khác, không chỉ đơn thuần là người viết truyện cổ tích.