Và cái biết lớn nhất, là biết bơi trên con sông Thoa chảy qua trước nhà mình. Sông không rộng nhưng nước rất trong. Tôi được thầy tôi (ông cụ thân sinh) tập bơi, vì như ông bảo, trẻ con ở gần sông phải biết bơi để tự bảo vệ mình khỏi đuối nước.
Tôi đã tập và biết bơi rất nhanh. Không chỉ biết bơi kiểu chó, rồi biết bơi sải, tôi còn biết bơi ếch, bơi đứng, bơi ngửa là những kiểu bơi khó hơn. Năm ấy tôi mới 6 tuổi. Từ con sông nhỏ ở làng mình, khi lớn lên, vào bộ đội rồi đi chiến trường, nhờ biết bơi mà tôi rất tự tin khi cần băng qua sông lớn. Ở chiến trường Nam bộ sông rạch ngang dọc mà không biết bơi thì nguy hiểm lắm.
Làng tôi ngày kháng chiến cũng vắng lặng như nhiều làng khác, vì con trai lớn đều đi vệ quốc đoàn, thầy tôi đi kháng chiến, nên ở nhà chỉ có hai má con tôi. Nhưng trẻ con lứa tôi ở làng thì không thiếu.
Tôi suốt ngày chạy chơi với đám trẻ bạn tôi, trời nắng nóng thì nhảy xuống sông tắm, bơi qua bơi lại sông Thoa, thật đã đời.
Từ nhỏ cho đến năm 8 tuổi, tôi chưa bao giờ rời làng mình. Những trò chơi con trẻ, tới bây giờ tôi vẫn nhớ. Nó làm nên ký ức tuổi thơ tôi.
Năm lên 7 tuổi, tôi cũng được đi học lớp 1 ở trường làng, cùng chúng bạn ê a từng con chữ. Được cái tôi biết chữ nhanh. Đọc được sách từ trước khi đi học. Nhưng ở làng tôi thuở ấy, làm gì có sách mà đọc.
Thỉnh thoảng, thầy tôi từ chiến khu về nhà, mang vài quyển sách chính trị, tôi vồ lấy đọc, mà chẳng hiểu gì cả. Nhưng các trò chơi của trẻ con, những con chuồn chuồn con cá con cua, thì tôi biết. Và rất thân quen với chúng.
Năm 1954, lúc tôi 8 tuổi, kháng chiến thắng lợi, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức lễ mừng thắng lợi rất to. Tôi theo thầy tôi ra thị xã Quảng Ngãi, lần đầu tôi mới biết thế nào là một thị xã.
Hồi đó thị xã Quảng Ngãi cũng rất nhỏ thôi, nhưng với tôi là quá lớn. Cũng lần đầu tiên, tôi biết cái bóng đèn điện sáng thế nào. Thật kinh ngạc. Với một đứa trẻ nhà quê, đó được coi là "khai sáng".
Những điều kỳ lạ bên ngoài làng mình, mới biết thì rất thích thú, còn làng quê mình, những cái mình biết thật quá nhỏ bé, nhưng chúng sống rất lâu trong tâm hồn mình, cả đời người chứ không phải vài chục năm.
Vâng, năm lên 8 tuổi, tôi được đi tập kết ra Bắc, rồi từ đó, bao nhiêu sự việc ập đến với đời tôi, nên ngôi làng nhỏ bé của tôi chìm sâu tận đáy lòng. Mình ít nhớ đến nó, mà cũng chẳng biết lúc nào thì được về làng, vì chiến tranh kéo dài quá lâu.
Tôi đã xa làng tôi đúng 21 năm. Cả một cuộc chiến tranh. Cuối năm 1970 tôi vào chiến trường Nam bộ, mãi tới hòa bình thống nhất năm 1975 mới có cơ hội về thăm làng quê mình.
Đó là đầu tháng 6 năm 1975, khi tôi theo đoàn nhà văn miền Trung đi từ Sài Gòn qua rất nhiều tỉnh, thành trước khi về Quảng Ngãi. Tôi đã kéo nhà thơ Ngô Thế Oanh về làng tôi. Vẫn là làng Thi Phổ Nhứt đó thôi, mà tôi xa làng đúng 21 năm. Vẫn nhớ đường về. Nhớ cầu Giắt Giây. Nhớ Cầu Đập. Nhớ cả con đường đất nhỏ dẫn xuống nhà mình.
Làng tôi gặp lại sau 21 năm vẫn như không có mấy thay đổi. Chiến tranh không tàn phá nhiều, làng vẫn nghèo như khi tôi rời đi lúc 8 tuổi.
Suốt thập niên 70, rồi thập niên 80, làng tôi vẫn vậy. Những năm thầy má tôi còn tại thế, vợ chồng con cái tôi vẫn thường xuyên về nhà mình, làng mình, nhất là mỗi dịp tết, gia đình tôi ở Quy Nhơn đều về ăn tết với thầy má chúng tôi ở làng quê Thi Phổ.
Dù ở Quy Nhơn thời bao cấp xe đò rất khó mua vé.
Bài thơ Ở quê nhà, tôi viết năm 1982 là đúng với cảnh vật và tâm trạng của tôi hồi đó. Vẫn là những hàng cau tới mùa trổ hoa, nhưng cảm giác như vừa yêu thương vừa xa lạ, và không khí ngôi làng lặng thầm, ban ngày lặng lẽ, ban đêm không có điện chỉ thắp đèn dầu, thì đúng là "sống thầm". Chỉ ký ức về tuổi thơ của mình ở làng thì vẫn sáng tới từng chi tiết nhỏ:
những cây cau đã trổ hoa
yêu thương xa lạ
nơi không khí biến ta thành lặng lẽ
dẫu muốn ồn ào biết ồn ào với ai
con đường mấy mươi năm mòn dần dưới chân người chân trâu chân mưa
đường lầy thụt dẫn về yên tĩnh
ta đã có những con chuồn chuồn con cá con cua
ta đã có nỗi cô đơn ngọt ngào trẻ nhỏ
gần như một bức tường vô hình dựng lên
bao bọc tuổi thơ quê nhà mấy mươi năm xa cách
thỉnh thoảng ta về nhìn ngắm lại
phần đời đầu tiên con đường loang những vết bùn
nơi mùi hoa cau thơm đậm hơn
lúa xanh hơn dòng sông hiền hơn tất cả
hoàng hôn xuống như một người gánh rạ
gánh sắc vàng đang sẫm dần
Đây là bài thơ tôi viết tặng làng mình, thơ đầy yêu thương lặng lẽ, giống như không khí làng tôi.
Chúng ta có thể sống ở làng cả đời, có thể sống chỉ một số năm, nhưng cái tình với làng mình thì trước sao sau vậy, vẫn âm thầm và chung thủy.