Nguyên đơn: Nông trường giao đất trái pháp luật
Tại tòa, đại diện UBND TX.Trảng Bàng trình bày khu đất mà bà Phương đang sử dụng là đất công. Năm 1991, UBND H.Trảng Bảng (nay là TX.Trảng Bảng) giao khu đất này cho nông trường quản lý, sử dụng trồng cao su. Năm 1992, nông trường ký hợp đồng giao đất cho các hộ dân, trong đó có bà Phương.
Theo UBND TX.Trảng Bàng, các hợp đồng kinh tế của nông trường giao hơn 55 ha đất cho bà Phương là trái pháp luật. Bởi, theo khoản 2, Điều 24 luật Đất đai 1993, và khoản 2, Điều 59 luật Đất đai năm 2013, việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân là thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Về nội dung hợp đồng, việc giao đất 50 năm bằng một chu trình cây cao su là không đúng quy định quy trình về chăm sóc, trồng và khai thác cây cao su mà Tổng công ty cao su Việt Nam trả lời là 20 năm. Đến thời điểm hiện nay, bà Phương đã khai thác cây cao su trên 25 năm, là hết chu kỳ khai thác cây cao su.
Đại diện UBND TX.Trảng Bàng cũng cho rằng, theo hợp đồng kinh tế giao đất của nông trường với bà Phương thì bên được giao đất phải trả tiền thuê đất và chi phí quản lý 1%/năm, nhưng bà Phương không thực hiện nghĩa vụ này.
Từ những vi phạm về hình thức và nội dung của hợp đồng, UBND TX.Trảng Bàng đề nghị tòa tuyên bố hợp đồng kinh tế giữa các bên vô hiệu; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, UBND TX.Trảng Bàng ghi nhận việc bà Phương đã đầu tư san ủi mặt bằng, cải tạo và trồng cây cao su nên sẽ hỗ trợ chi phí thanh lý tài sản là hơn 16 tỉ đồng, theo chứng thư thẩm định của cơ quan độc lập.
Bị đơn: Hợp đồng giao khoán đất, không phải giao đất
Tại phiên tòa, bà Huỳnh Thị Lan Phương trình bày theo hợp đồng kinh tế ký giữa bà và nông trường thì thời hạn giao đất là 50 năm, tính từ năm 1992. Hiện nay, vườn cao su của bà vẫn cho thu hoạch mủ. Tuy nhiên, nếu UBND TX.Trảng Bàng thu hồi đất phục vụ cho phát triển kinh tế địa phương, bà sẽ trả, nhưng cần thỏa thuận bồi thường hợp lý cho bà khi hợp đồng kinh tế kết thúc trước thời hạn.
Cụ thể, bà Phương yêu cầu UBND TX.Trảng Bàng phải bồi thường 3 tỉ đồng/ha đất, gồm chi phí thanh lý tài sản, hoa lợi thực tế bị mất trong suốt thời gian còn lại của hợp đồng. “Chứng thư thẩm định giá của công ty do nguyên đơn yêu cầu, và được tòa chấp nhận, tôi chưa bao giờ đồng ý vì không xem xét bồi thường các nội dung tôi đề cập, cũng như chưa kiểm đếm, đánh giá đúng toàn bộ giá trị tài sản trên đất”, bà Phương bức xúc tại tòa.
Bảo vệ quyền lợi cho bà Phương, luật sư cho rằng hợp đồng kinh tế giữa nông trường và bà Phương là hợp đồng giao khoán đất, không phải là hợp đồng giao đất như cách hiểu của phía nguyên đơn.
Cụ thể, luật sư trình bày, hợp đồng kinh tế các bên ghi rõ nông trường giao cho bà Phương đất rừng tái sinh và bà Phương có trách nhiệm đầu tư san ủi mặt bằng, trồng, chăm sóc, khai thác đúng quy trình kỹ thuật về cây cao su; nộp cho nông trường chi phí quản lý 1%/năm theo cách tính sản lượng mủ, nộp thuế theo quy định; sau khi thu hoạch sản phẩm phải bán cho nhà nước. Nội dung này phù hợp quy định hợp đồng giao khoán theo khoản 4, Điều 5 Nghị định 01/1995 của Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 135/2005/NĐ-CP và Nghị định số 168/2016/NĐ-CP: “Việc giao khoán và nhận khoán đất phải thông qua hợp đồng. Hợp đồng giữa bên giao khoán và bên nhận khoán phải thể hiện được nội dung kinh tế, quyền và nghĩa vụ mỗi bên và những cam kết để đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng”.
Cũng theo luật sư phía bị đơn, nông trường là doanh nghiệp nhà nước, được UBND H.Trảng Bàng giao đất làm kinh tế nông lâm nghiệp. Từ đó, căn cứ khoản 3 Điều 3 luật Đất đai năm 1993, khoản 1 điều 5 Pháp lệnh 37/CTN, khoản 1, Điều 4 Nghị định số 01/1995/NĐ-CP thì nông trường có đủ thẩm quyền giao khoán đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất. Đồng thời, bà Phương cũng là đối tượng được nhận khoán đất để sản xuất nông nghiệp. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Phương luôn thực hiện đúng giao kết, sử dụng đất đúng mục đích, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính. Vì vậy, căn cứ khoản 3, Điều 17 Nghị định 135/2005/NĐ-CP và khoản 2, Điều 10 Nghị định 168/2016/NĐ-CP thì bà Phương hoàn toàn đủ điều kiện để được tiếp tục hợp đồng nhận khoán nêu trên đến khi hết thời hạn. “Trường hợp một bên vi phạm hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại”, luật sư này nêu quan điểm.
Ngoài ra, theo luật sư của bà Phương, trường hợp nếu nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho phát triển kinh tế địa phương thì đối tượng bị thu hồi là nông trường, mà nay được sáp nhập Công ty 30/4 Tây Ninh. Sau đó, Công ty Cao su 30/4 Tây Ninh muốn giao đất lại cho UBND TX.Trảng Bàng thì phải chấm dứt hợp đồng với các hộ dân, cá nhân được giao khoán đất thông qua thương lượng, hòa giải và bồi thường thiệt hại theo quy định. Nếu hai bên không thương lượng, hòa giải để chấm dứt hợp đồng thì có quyền đề nghị tòa án giải quyết.
Cho rằng chủ thể và nội dung khởi kiện không phù hợp, luật sư bị đơn đề nghị HĐXX đình chỉ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Theo dự kiến, HĐXX sẽ tuyên án vào sáng mai (14.8).
Nhà báo không được chụp hình đương sự
Trước khi phiên tòa diễn ra, HĐXX thông báo phiên xử có các nhà báo tham dự đưa tin, nhưng HĐXX không đồng ý cho các nhà báo ghi âm, ghi hình. Mọi hình ảnh phát tán trên mạng, báo chí, nếu có ai đó không đồng ý thì cơ quan báo chí chịu trách nhiệm.
Trao đổi với PV Thanh Niên, một thẩm phán TAND TP.HCM cho hay khoản 4 Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của HĐXX phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác thì phải được sự đồng ý của những người này. “Trong phiên tòa dân sự, hành chính, để biết nhà báo có được ghi âm, ghi hình người tham gia tố tụng hay không, thì chủ tọa phải hỏi các đương sự liên quan, nếu họ đồng ý thì nhà báo có quyền tác nghiệp theo luật Báo chí”, vị thẩm phán này phân tích.
Cần nông trường tham gia đối chất?
Tại tòa, bà Huỳnh Thị Lan Phương cho biết quá trình giải quyết vụ án, phía nông trường (nay là Công ty Cao su 30/4 Tây Ninh) chưa một lần đến tòa làm việc cùng bà cũng như các bên để đối chất, làm rõ vụ việc, từ đó giải quyết bồi thường thỏa đáng, hợp tình, hợp lý cho bà. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Phương cũng nêu quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai đương sự của tòa án đối với đại diện Công ty Cao su 30/4 Tây Ninh, thể hiện công ty xác nhận việc giao đất cho bà Phương trồng cao su thông qua các hợp đồng kinh tế; đồng thời công ty xin vắng mặt trong quá trình xét xử và đề nghị HĐXX xét xử theo quy định pháp luật.
Trong vụ án, Công ty Cao su 30/4 Tây Ninh được tòa án xác định tư cách tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.