CHƯA TỚI 1% HỌC SINH HỌC TÍCH HỢP TIẾNG ANH TRONG MÔN KHÁC
Phát biểu đề dẫn, TS Nguyễn Thị Thu Huyền, nhà sáng lập, Giám đốc điều hành Học viện Giáo dục song ngữ VN, trích dẫn báo cáo chỉ số thông thạo tiếng Anh toàn cầu năm 2025 của Tổ chức giáo dục quốc tế Education First (EF) công bố mới đây. Theo đó, VN đứng thứ 64/123 nước, xếp thứ 7 ở châu Á, độ thành thạo mức "trung bình", trong đó kỹ năng đọc là tốt nhất, kém nhất ở kỹ năng nói.

Một buổi học tiếng Anh của học sinh cấp THCS tại TP.HCM ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Theo báo cáo tổng kết đề án dạy và học ngoại ngữ giai đoạn 2017 - 2025 của Bộ GD-ĐT, có 44/63 tỉnh thành thí điểm dạy các môn học bằng tiếng Anh hoặc tích hợp tiếng Anh trong các môn học. Đáng chú ý, hằng năm, trung bình có 77.348 học sinh (HS) học tích hợp tiếng Anh trong các môn khác, số này chiếm 0,54%. Trung bình có 112.496 HS học các môn bằng tiếng Anh hằng năm, chiếm khoảng 0,78% tổng số HS.
Thực tế này đặt trong bối cảnh Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2045 càng cho thấy việc kiến tạo trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai là hết sức cần thiết.
SONG NGỮ KHÔNG PHẢI "TRỘN" THÊM VÀI TIẾT TIẾNG ANH
Có một thực tế là nhiều người cứ nghĩ trường học song ngữ - sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai trong trường học, là cho tăng thêm vài tiết tiếng Anh hay giáo viên (GV) dạy con em mình phải là người nước ngoài, có "giao diện" càng "Tây" càng lợi thế.
TS Nguyễn Quang Minh, tốt nghiệp tiến sĩ quản lý tại ĐH Massey, New Zealand, người có nhiều kinh nghiệm trong quốc tế hóa, cải cách trường học bền vững, nhấn mạnh giáo dục song ngữ không chỉ là dạy 2 ngôn ngữ trong chương trình mà là dạy nội dung môn học qua 2 ngôn ngữ. HS phát triển ngôn ngữ thứ hai (tiếng Anh) phải được hỗ trợ có chủ đích trong từng bài học và có sự nhất quán. Đặc biệt, không phải cứ "trộn thêm vài tiết tiếng Anh vào chương trình" là ra trường học song ngữ. Theo TS Minh, không có mô hình song ngữ nào phù hợp cho mọi trường học, do đó phải thiết kế, vận hành từng trường dựa vào bối cảnh, đặc thù cụ thể của trường đó.
Kinh nghiệm của TS Minh về thiết kế, vận hành chương trình môn học bằng tiếng Anh ở trường phổ thông VN là luôn cần hệ thống kiểm tra - đánh giá tiến bộ HS, đảm bảo năng lực tiếng Việt và tiếng Anh được phát triển cân bằng. Đặc biệt, luôn luôn cần kết nối với phụ huynh, đào tạo đội ngũ, cải tiến chương trình dựa trên phản hồi thực tế.
TS Nguyễn Thị Thu Huyền nhấn mạnh yếu tố quyết định thành công của trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai là vai trò của chính sách, năng lực GV, chương trình và tài nguyên học tập. Xu hướng toàn cầu là chuyển dịch từ song ngữ "học ngôn ngữ" sang song ngữ "học qua ngôn ngữ" (CLIL- Content and Language Integrated Learning - học tích hợp nội dung và ngôn ngữ).
Theo đó, HS vừa học nội dung môn học như toán, khoa học tự nhiên, địa lý… vừa học ngôn ngữ mới, như tiếng Anh. Điều quan trọng, dù trường học sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai thì điều bắt buộc là cần bảo tồn và phát huy tiếng mẹ đẻ song song với phát triển tiếng Anh. Song ngữ không phải là "Tây hóa" mà đang đào tạo HS VN trở thành công dân toàn cầu nhưng vẫn bảo tồn tiếng Việt, bảo vệ bản sắc VN.

TS Nguyễn Thị Thu Huyền chia sẻ các con số về việc học tiếng Anh của HS Việt Nam Ảnh: Thúy Hằng
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, BAN HÀNH CHUẨN GIÁO VIÊN
TS Nguyễn Thanh Bình, Trưởng khoa tiếng Anh Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, Phó trưởng ban Quản lý Đề án ngoại ngữ quốc gia, cho hay câu hỏi thường gặp ở các trường khi nói tới việc dạy học bằng tiếng Anh, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường là "lấy GV tiếng Anh dạy các môn học, hay lấy GV các môn chuyên ngành dạy bằng tiếng Anh?".
Theo TS Bình, câu trả lời ở đây không phải là chọn GV nào, mà cần phải xác định khung chuẩn chung cần có cho đội ngũ GV để có thể dạy song ngữ. GV nào đáp ứng được các yêu cầu sẽ được giao lớp. Do đó, TS Bình nhấn mạnh ở khâu chính sách của Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, Bộ GD-ĐT phải ban hành chuẩn năng lực GV CLIL/EMI (English as a Medium Instruction - tiếng Anh như một phương tiện giảng dạy, nghĩa là sử dụng tiếng Anh để dạy các môn học). Bộ cũng phải ban hành khung chương trình đào tạo GV dạy song ngữ, khung chương trình bồi dưỡng cấp chứng chỉ GV song ngữ.
TS Bình cho hay hiện nay ở các trường sư phạm đều là chương trình đào tạo thuần túy đơn môn, thiếu học phần/chương trình CLIL/EMI. Bên cạnh đó, các trường sư phạm thiếu giảng viên phương pháp dạy học bằng tiếng Anh trong từng môn cụ thể (như toán, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội). Thực tế nhiều trường cũng bị giới hạn học liệu, mô hình phòng lab cho CLIL.
Để giải các bài toán này, TS Bình cho biết hiện nay Trường ĐH Sư phạm TP.HCM đang đào tạo chương trình toán học dạy bằng song ngữ Việt - Anh. Lứa sinh viên đầu tiên của chương trình này sắp ra trường. Bên cạnh đó, trường cũng có giải pháp xây dựng mới chương trình đào tạo GV dạy bằng tiếng Anh theo lộ trình. Trường đã xây dựng chương trình dạy các môn học khác bằng song ngữ Việt - Anh như giáo dục tiểu học, sư phạm khoa học tự nhiên, sư phạm vật lý…
Song cũng có một thực tế, như TS Nguyễn Thị Thu Huyền nhìn nhận, đó là động lực, năng lực tự phát triển bản thân của nhiều GV VN còn hạn chế. Vẫn nhiều GV nghĩ chỉ dạy toán, vật lý, hóa học bằng tiếng Việt giỏi là đủ, việc gì phải dạy bằng tiếng Anh. Vì vậy, có trường sư phạm thiết kế chương trình dạy các môn học khác bằng song ngữ Việt - Anh nhưng ít sinh viên đăng ký học nên chưa thể triển khai. Do đó, theo TS Huyền, giải pháp dài hạn là phải xây dựng lộ trình phát triển nghề nghiệp cho GV dạy các môn học bằng tiếng Anh đi kèm với chính sách đãi ngộ và ghi nhận xứng đáng.
TP.HCM vẫn còn thiếu giáo viên các môn đặc thù
Theo UBND TP.HCM, qua 5 năm thực hiện Chương trình GDPT mới, bên cạnh những thuận lợi, hiện nay một số trường tiểu học còn gặp khó khăn khi thiếu nguồn GV môn tin học, âm nhạc, mỹ thuật, giáo dục thể chất, tiếng Anh.
Ở cấp THPT, một số trường thiếu nguồn GV môn tin học, âm nhạc, mỹ thuật dẫn đến hiện trạng không thể tổ chức nhóm môn học nghệ thuật. Lộ trình đào tạo GV âm nhạc, mỹ thuật của các trường sư phạm chưa kịp đáp ứng nhu cầu cung cấp nhân lực thực hiện chương trình mới.
Theo ông Tống Phước Lộc, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Sở GD-ĐT, sau đợt tuyển dụng cuối tháng 9 vừa qua, ngành giáo dục tuyển được hơn 3.900 GV, còn thiếu gần 1.800 người so với nhu cầu của các trường.
Trong đó, những vị trí GV chưa tuyển đủ chủ yếu ở 5 môn âm nhạc, mỹ thuật, tin học, lịch sử và địa lý, công nghệ, của cấp tiểu học và THCS. Theo Sở GD-ĐT, những môn này có rất ít thí sinh đăng ký so với nhu cầu. Ví dụ, môn âm nhạc cấp tiểu học chỉ có 46 ứng viên trong khi nhu cầu là 180 GV; cấp THCS có 65 người dự thi trong khi thành phố cần 223 GV. Với môn mỹ thuật, cần tuyển 194 GV cấp tiểu học nhưng chỉ 30 người dự thi; cấp THCS cần 235 GV chỉ có 57 ứng viên.
Tuy nhiên, lãnh đạo Sở GD-ĐT cho hay dù vẫn gặp khó trong nguồn tuyển một số môn học nghệ thuật nhưng những môn vốn khó tuyển trước đây năm nay đã có tín hiệu khả quan.
Chẳng hạn vị trí GV tiếng Anh cấp tiểu học tuyển được 157/168 GV, chỉ còn thiếu 11 GV tại khu vực 2. Tương tự, GV tiếng Anh cấp THCS tuyển được 227/238 GV. GV tiếng Anh cấp THPT tuyển được 47/49 GV.
Bích Thanh




.jpg)







.jpg)



